1. Thực trạng tổ chức và hoạt động luật sư ở Việt Nam
Pháp lệnh Luật sư năm 2001 tạo ra một bước phát triển đúng hướng cho nghề luật sư ở nước ta. Pháp lệnh Luật sư khẳng định luật sư là một nghề trong xã hội và mang tính chuyên nghiệp cao. Điều 7 Pháp lệnh Luật sư quy định: “Người muốn được hành nghề luật sư phải gia nhập một Đoàn luật sư và có Chứng chỉ hành nghề luật sư”. Về tiêu chuẩn chuyên môn, Pháp lệnh Luật sư đưa ra một đòi hỏi cao hơn, quy định người muốn được công nhận là luật sư thì sau khi tốt nghiệp đại học luật (không chấp nhận trình độ tương đương đại học luật như quy định của Pháp lệnh Tổ chức luật sư năm 1987) còn phải qua một khoá đào tạo luật sư và một thời gian tập sự là 24 tháng (khoản 1 Điều 8 của Pháp lệnh Luật sư). Để chuyên nghiệp hoá đội ngũ luật sư, Pháp lệnh Luật sư năm 2001 quy định cán bộ, công chức không được hành nghề luật sư. Quy định như vậy là phù hợp với tính chất của nghề luật sư, thông lệ quốc tế, đồng thời cũng phù hợp với Pháp lệnh về cán bộ, công chức.
Pháp lệnh Luật sư đã phân định rõ tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư và tổ chức hành nghề của luật sư. Việc phân định rõ tổ chức xã hội- nghề nghiệp với tổ chức hành nghề của luật sư là tạo điều kiện cho các luật sư thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong hành nghề; tạo cơ sở pháp lý mở rộng mạng lưới dịch vụ của luật sư theo nhu cầu của xã hội; đồng thời đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lý của Đoàn luật sư.
Pháp lệnh Luật sư quy định rõ các luật sư được tự do thành lập Văn phòng luật sư hoặc Công ty luật hợp danh theo quy định của pháp luật, tự tổ chức và tự chịu trách nhiệm về việc hành nghề của mình trong Văn phòng luật sư hoặc Công ty luật hợp danh do mình thành lập (Điều 17, Điều 18 và Điều 19 của Pháp lệnh Luật sư).
Pháp lệnh Luật sư đã mở rộng đáng kể quyền của luật sư. Luật sư được quyền đứng ra thành lập Văn phòng luật sư cá nhân của mình hoặc cùng với các luật sư khác thành lập Văn phòng luật sư hoặc Công ty luật hợp danh; được hợp tác với tổ chức luật sư nước ngoài theo các hình thức do pháp luật quy định; được đặt cơ sở hành nghề ở nước ngoài. Pháp lệnh cũng quy định rộng và cụ thể hơn phạm vi và các lĩnh vực hành nghề của luật sư, trong đó, ngoài lĩnh vực tham gia tố tụng, đã chú trọng hơn đến lĩnh vực tư vấn pháp luật của luật sư, đặc biệt là tư vấn pháp luật trong các lĩnh vực đầu tư, kinh doanh.
Pháp lệnh Luật sư đã thể chế hoá chủ trương của Đảng “kết hợp quản lý nhà nước với vai trò tự quản của các tổ chức nghề nghiệp”. Việc kết hợp quản lý nhà nước với vai trò tự quản của tổ chức luật sư đã được thể hiện ngay từ quy định về điều kiện hành nghề luật sư; theo đó, một người muốn hành nghề luật sư thì phải gia nhập Đoàn luật sư và phải có chứng chỉ hành nghề do cơ quan nhà nước cấp. Người muốn được hành nghề luật sư trước hết phải gia nhập một Đoàn luật sư để tập sự hành nghề và sau khi đã đạt yêu cầu kỳ kiểm tra hết tập sự sẽ được Đoàn luật sư đề nghị Bộ Tư pháp cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư (Điều 7, Điều 8, Điều 10, Điều 13 của Pháp lệnh Luật sư).
Để triển khai thi hành Pháp lệnh Luật sư ngày 12/12/2001 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 94/2001/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Luật sư và ngày 22/01/2002 Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 02/2002/TT-BTP hướng dẫn một số quy định của Nghị định số 94/2001/NĐ-CP ngày 12/12/2001 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Luật sư.
Ngày 05/8/2002 Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký Quyết định số 356b/2002/QĐ-BT ban hành Quy tắc mẫu về đạo đức nghề nghiệp luật sư. Thông tư liên tịch “Hướng dẫn về thù lao và chi phí cho luật sư trong trường hợp luật sư tham gia tố tụng theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng” đã được Bộ Tư pháp phối hợp với Bộ Tài chính xây dựng và ban hành ngày 6/12/2001. Về chế độ thuế đối với Văn phòng luật sư, Công ty luật hợp danh, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 53/TT-BTC ngày 02/6/2003 hướng dẫn về vấn đề này. Để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc về thủ tục khi luật sư tham gia tố tụng, cần sớm soạn thảo Thông tư liên tịch về bảo đảm sự tham gia của luật sư trong tố tụng hình sự.
Ngoài những văn bản kể trên, Bộ Tư pháp đã có nhiều công văn hướng dẫn Sở Tư pháp, Đoàn luật sư kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai thi hành Pháp lệnh Luật sư năm 2001. Có thể nói, các cơ quan quản lý nhà nước về hành nghề luật sư đã quan tâm và có nhiều cố gắng trong việc triển khai thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn trong lĩnh vực quản lý hành nghề luật sư theo quy định của pháp luật.
Sau hơn ba năm thi hành Pháp lệnh Luật sư, nghề luật sư ở nước ta đã có một diện mạo mới và đang được tiếp tục củng cố, phát triển theo định hướng và mục tiêu mà Đảng, Nhà nước ta đã đề ra. Chất lượng đội ngũ luật sư đã được nâng lên một bước đáng kể theo hướng chính quy hoá, chuyên nghiệp hoá, mở ra triển vọng to lớn cho việc thực hiện mục tiêu xây dựng đội ngũ luật sư Việt Nam ngang tầm với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Mở rộng và nâng cao chất lượng hành nghề luật sư là đòi hỏi khách quan của xã hội. Nhà nước cần tạo lập hành lang pháp lý thông thoáng hơn nữa, tạo điều kiện thuận lợi cho các luật sư thành lập và mở rộng phạm vi hành nghề của các tổ chức hành nghề luật sư bằng việc tiếp tục đơn giản thủ tục đăng ký hoạt động cho tổ chức hành nghề luật sư. Các luật sư chủ động củng cố, kiện toàn các tổ chức hành nghề luật sư đã được đăng ký hoạt động, đổi mới công tác quản lý điều hành, tăng cường công tác quản lý luật sư của các tổ chức hành nghề luật sư.
Tiếp tục nâng cao, tạo một bước chuyển biến quan trọng về chất lượng hành nghề luật sư. Khắc phục những nhược điểm, những yếu kém về chuyên môn, tiêu cực về đạo đức nghề nghiệp, đồng thời phát huy những ưu điểm, mặt tích cực của luật sư trong hoạt động tham gia tố tụng, tiếp tục góp phần thực hiện có hiệu quả Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị và thi hành các bộ luật tố tụng. Đẩy mạnh dịch vụ tư vấn pháp luật của luật sư theo hướng nâng cao chất lượng tư vấn, mở rộng phạm vi nội dung và đối tượng tư vấn, đặc biệt trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại trong nước và quốc tế. Để mở rộng phạm vi và nâng cao chất lượng dịch vụ của luật sư, cần quan tâm hơn nữa đến công tác bồi dưỡng nghiệp vụ, chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp cho các luật sư; nghiên cứu xây dựng chuẩn mực về văn hoá giao tiếp, ứng xử của luật sư trong hoạt động nghề nghiệp.
Sau hơn ba năm thi hành Pháp lệnh Luật sư, có thể khẳng định rằng những kết quả đã đạt được là cơ bản và đáng kể, những hạn chế , khó khăn chỉ là thứ yếu và tạm thời. Từ những kết quả và hạn chế đó rút ra những bài học bổ ích để tiếp tục thi hành tốt hơn nữa Pháp lệnh Luật sư năm 2001 và hoàn thiện pháp luật về luật sư.
2. Định hướng phát triển tổ chức và hoạt động luật sư ở Việt Nam.
Xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước luôn là nhiệm vụ trung tâm trong việc đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta trong thời gian qua. Trong 20 năm thực hiện đường lối đổi mới Đảng ta đã có nhiều nghị quyết quan trọng về hoàn thiện bộ máy nhà nước, không ngừng nâng cao hiệu quả, hiệu lực hoạt động của Nhà nước, đáp ứng kịp thời nhu cầu phát triển của đất nước trong thời kỳ mới. Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII tại Đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã xác định nhiệm vụ mang tính chiến lược là xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng là nhiệm vụ chiến lược với phương châm Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Mọi cơ quan tổ chức, cán bộ, công chức và mọi công dân có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật.
Cùng với việc cải cách bộ máy nhà nước và cải cách nền hành chính, trong nhiều nghị quyết của Đảng ta đã đề ra cải cách tư pháp. Cải cách tư pháp luôn được coi là một bộ phận quan trọng gắn liền với nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Mục tiêu của cải cách tư pháp là xây dựng một hệ thống cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh có phương thức tổ chức, hoạt động khoa học, hiện đại góp phần quan trọng vào việc giữ gìn trật tự kỷ cương phép nước. Nội dung chủ yếu của cải cách tư pháp là củng cố, kiện toàn bộ máy các cơ quan tư pháp, phân định lại thẩm quyền của Toà án, đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án và cơ quan, tổ chức bổ trợ tư pháp, trong đó có luật sư.
Như vậy, đổi mới tổ chức và hoạt động luật sư là một trong những nội dung của cải cách tư pháp và có mối quan hệ chặt chẽ với hoạt động tư pháp. Cải cách tổ chức và hoạt động sư phải được đặt trong bối cảnh cải cách tư pháp nói riêng và trong tổng thể cải cách bộ máy nhà nuớc nói chung.
Nhiệm vụ của luật sư là góp phần bảo vệ công lý, công bằng xã hội. Hoạt động của luật sư không phải là hoạt động tư pháp, nhưng lại có mối liên hệ gắn chặt với hoạt động tư pháp, hỗ trợ cho hoạt động tư pháp. Hoạt động của luật sư còn là phương tiện hữu hiệu giúp cho cá nhân, tổ chức bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Với chức năng, vai trò của luật sư trong xã hội nói chung, trong hoạt động tư pháp nói riêng, Đảng ta có chủ trương củng cố và tăng cường đối với tổ chức và hoạt động luật sư. Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã nêu rõ: “Đổi mới quản lý nhà nước đối với các hoạt động luật sư, tư vấn pháp luật, giám định tư pháp… phù hợp với chủ trương xã hội hoá, kết hợp quản lý nhà nước với vai trò tự quản của các tổ chức nghề nghiệp”.
Nghiên cứu các văn kiện của Đảng ta về cải cách tư pháp cho thấy trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Đảng ta rất chú trọng đến cải cách tổ chức và hoạt động luật sư. Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị “về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” đã đặc biệt quan tâm đến vai trò của luật sư và đặt nhiệm vụ cho cơ quan tư pháp trong việc bảo đảm hoạt động của luật sư trong tố tụng. Nghị quyết đã nêu rõ: “nâng cao chất lượng công tố của kiểm sát viên tại phiên toà, bảo đảm tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác”; “các cơ quan tư pháp có trách nhiệm để luật sư tham gia vào quá trình tố tụng; tham gia hỏi cung bị can, nghiên cứu hồ sơ vụ án, tranh luận dân chủ tại phiên toà…”. Để thực hiện những nhiệm vụ mà Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị đòi hỏi phải bổ sung, hoàn thiện pháp luật về tổ chức, hoạt động của cơ quan tư pháp và luật sư theo hướng phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan đồng thời xác định rõ vị trí của luật sư trong hoạt động tư pháp. Việc sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Toà án nhân dân và Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân là nhằm thể chế hoá những quan điểm, đường lối của Đảng về cải cách tư pháp, cụ thể hoá một số quy định của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) về toà án và viện kiểm sát. Vấn đề đặt ra là cần thiết lập được một cơ chế tổ chức, phối hợp kèm theo các biện pháp cơ bản nhằm bảo đảm sự bình đẳng thực sự của luật sư trong quá trình tranh tụng tại phiên toà, xác định rõ vai trò của bổ trợ tư pháp trong hoạt động tư pháp.
Các văn kiện của Đảng ta, đặc biệt là Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị “về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” đã đề ra những định hướng rất quan trọng đối với việc xây dựng và hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động luật sư cho phù hợp với tình hình mới của đất nước trước xu hướng phát triển và hội nhập. Để đưa được các quan điểm chỉ đạo đó trở thành hiện thực đòi hỏi chúng ta phải tiến hành đồng bộ nhiều biện pháp cơ bản trong đó phải kể đến các biện pháp về đổi mới nhận thức, đổi mới về công tác tổ chức, hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt động của luật sư. Việc thực hiện các biện pháp đó phải gắn liền với mục tiêu của cải cách tư pháp trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Đứng trước yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, nâng cao hiệu quả, hiệu lực hoạt động của các cơ quan tư pháp nhằm bảo vệ các quyền dân chủ của công dân, Đảng ta đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách trong việc cải cách hệ thống tư pháp từ tổ chức đến cơ chế hoạt động. Quan điểm mang tính định hướng là cải cách tư pháp phải nằm trong chủ trương đổi mới hệ thống chính trị, gắn liền với nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Trong tổng thể đổi mới hệ thống chính trị, cải cách tư pháp luôn được coi là một bộ phận quan trọng trong cải cách bộ máy nhà nước. Nội dung chủ yếu của cải cách tư pháp là kiện toàn bộ máy các cơ quan tư pháp, phân định rõ thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân các cấp, đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án và các cơ quan, tổ chức bổ trợ tư pháp (3).
Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện một số bước quan trọng về cải cách tư pháp. Tổ chức, bộ máy của các cơ quan điều tra, kiểm sát, toà án, thi hành án và bổ trợ tư pháp đã có nhiều điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với sự phát triển của đất nước. Chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan, tổ chức tư pháp, bổ trợ tư pháp như luật sư đã được xác định rõ ràng hơn. Hoạt động luật sư ngày càng phát triển, góp phần hỗ trợ đắc lực cho hoạt động tư pháp và nâng cao nhận thức pháp luật của nhân dân, hỗ trợ có hiệu quả cho công dân trong việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Tuy nhiên, trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân thì tổ chức và hoạt động luật sư còn có những bất cập nhất định cần tiếp tục đổi mới theo hướng từng bước xã hội hoá.
Xã hội hoá tổ chức và hoạt động luật sư cần theo định hướng cơ bản sau đây:
- Cần khẳng định luật sư là một nghề trong xã hội và vì vậy tổ chức, hoạt động luật sư cần được xây dựng trên những nguyên tắc là một nghề chuyên nghiệp, nghề tự do;
- Cần tạo cơ sở pháp lý thuận lợi để phát triển đội ngũ luật sư chuyên nghiệp để đáp ứng nhu cầu về luật sư tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật cho cá nhân, tổ chức nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ cũng như hỗ trợ đắc lực cho hoạt động xét xử;
- Từng bước chuẩn hoá các tiêu chuẩn luật sư phù hợp với các yêu cầu, điều kiện cụ thể của sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, nhưng phải bảo đảm đáp ứng các chuẩn mực về mặt chuyên môn, nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp, phù hợp với điều kiện hành nghề của luật sư trong khu vực và trên thế giới;
- Đề cao trách nhiệm cá nhân của luật sư, nâng cao vai trò tự quản của tổ chức nghề nghiệp của luật sư, đồng thời nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với nghề luật sư; phân biệt rõ quản lý nhà nước với tự quản của tổ chức nghề nghiệp của luật sư;
- Từng bước hoàn chỉnh hệ thống văn bản điều chỉnh nghề luật sư, tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho nghề luật sư Việt Nam phát triển, hội nhập khu vực và quốc tế.
Pháp lệnh Luật sư năm 2001 là một bước tiến quan trọng trong quá trình hoàn thiện thể chế luật sư ở nước ta. Pháp lệnh được ban hành trong bối cảnh chúng ta đang triển khai xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân và đã thể hiện được chủ trương của Đảng ta về cải cách tổ chức và hoạt động bổ trợ tư pháp nói chung, luật sư nói riêng. Tuy nhiên, để hoàn thiện về tổ chức luật sư và nâng cao hiệu quả hoạt động của luật sư thì cần sớm nghiên cứu xây dựng một đạo luật về luật sư, trong đó cần giải quyết 3 vấn đề chính là tiêu chuẩn luật sư, hình thức hành nghề luật sư và quản lý hành nghề luật sư.
- Tiêu chuẩn luật sư: Trên thế giới, việc cung cấp dịch vụ pháp lý phải do các nhà chuyên nghiệp bởi vì họ là những người am hiểu pháp luật, biết vận dụng pháp luật và có kỹ năng nghề nghiệp. Đặc biệt trong lĩnh vực tố tụng tư pháp, việc thực hiện các dịch vụ pháp lý phải là luật sư. Một số nước còn quy định rõ trong luật về sự độc quyền tham gia tố tụng của luật sư trước toà.
ở Việt Nam, luật sư là một nghề đòi hỏi rất cao về chuyên môn nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp. Muốn trở thành luật sư phải có bằng cử nhân luật, qua đào tạo nghề, qua thời gian tập sự, thi đỗ kỳ thi hết tập sự mới được cấp chứng chỉ hành nghề luật sư và mới có quyền hành nghề luật sư. Trong khi đó, những người khác, pháp luật không đòi hỏi ở họ hoặc đòi hỏi thấp hơn so với luật sư điều kiện về chuyên môn, nghiệp vụ cũng như kỹ năng nghề nghiệp mà vẫn được tham gia tố tụng, thực hiện tư vấn pháp luật và các dịch vụ pháp lý khác.
Hiện nay, theo quy định của pháp luật tố tụng, ngoài luật sư còn có sự tham gia của những người khác không phải là luật sư để bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo và các đương sự khác. Đội ngũ luật sư ngày càng phát triển cả về số lượng và chất lượng, thực tế cũng khẳng định vai trò của luật sư trong xã hội và việc thực hiện các dịch vụ pháp lý chủ yếu là luật sư. Vì vậy, đã đến lúc cần chuyên môn hoá, chuyên nghiệp hoá hoạt động dịch vụ pháp lý, hạn chế những người không có trình độ nghiệp vụ, kỹ năng hành nghề dịch vụ pháp lý được tham gia tố tụng và tiến tới chỉ có luật sư mới được tham gia tố tụng để bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo và các đương sự khác thì mới nâng cao chất lượng và hiệu quả của hoạt động tư pháp.
- Hình thức hành nghề luật sư: Về hình thức tổ chức hành nghề luật sư được quy định tại Điều 3 và Điều 17 của Pháp lệnh Luật sư, theo đó luật sư có thể tự mình thành lập Văn phòng luật sư của riêng mình, cùng với các luật sư khác thành lập Văn phòng luật sư hoặc Công ty luật hợp danh. Để phù hợp với tình hình mới sau khi Luật Doanh nghiệp đã được ban hành và đáp ứng yêu cầu hội nhập khu vực và quốc tế về dịch vụ pháp lý, Pháp lệnh Luật sư quy định Công ty luật hợp danh là hình thức hành nghề của luật sư. Song vì Công ty được quan niệm là hình thức kinh doanh không phù hợp với hoạt động tham gia tố tụng, đặc biệt với điều kiện của Việt Nam, nên Pháp lệnh quy định Công ty luật hợp danh được thực hiện tư vấn pháp luật, dịch vụ pháp lý khác, nhưng không được thực hiện dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực tố tụng (khoản 2 Điều 18 của Pháp lệnh Luật sư). Đó là sự khác nhau cơ bản giữa Văn phòng luật sư và Công ty luật hợp danh. Đây là vấn đề đang còn có ý kiến chưa đồng tình, cho rằng không nên có sự phân biệt lĩnh vực hành nghề giữa Văn phòng luật sư và Công ty luật hợp danh, vì vậy cần mở rộng phạm vi hành nghề của tổ chức hành nghề luật sư, cho phép Công ty luật hợp danh được cung cấp dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực tố tụng tư pháp.
Theo quy định của Luật Doanh nghiệp nếu có Chứng chỉ hành nghề kinh doanh dịch vụ pháp lý thì có thể thành lập các hình thức kinh doanh được quy định trong Luật Doanh nghiệp. Vì vậy, cần đa dạng hoá các hình thức tổ chức hành nghề của luật sư. Luật sư có thể lựa chọn các hình thức hành nghề phù hợp mà không bị hạn chế bởi hình thức hành nghề là Văn phòng luật sư hoặc Công ty luật hợp danh. Luật sư là một nghề trong xã hội, là một hoạt động dịch vụ mang tính chất kinh doanh do đó có quyền lựa chọn các hình thức kinh doanh theo quy định của pháp luật để hành nghề. Ngoài ra cần mở rộng hình thức hành nghề của luật sư, cho phép luật sư được hành nghề độc lập dưới hình thức làm thuê cho các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức với tư cách là luật sư riêng.
- Quản lý hành nghề luật sư: Trong thời gian tới cần nghiên cứu và xác định rõ mô hình tổ chức xã hội nghề nghiệp của luật sư trên phạm vi toàn quốc. Phân biệt rõ việc quản lý nhà nước với việc tự quản của tổ chức xã hội nghề nghiệp của luật sư: Nhà nước quản lý khâu nào, quản cái gì và tổ chức xã hội nghề nghiệp của luật sư quản lý khâu nào, quản cái gì? Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc quản lý tổ chức và hành nghề luật sư bằng việc công nhận, cấp chứng chỉ hành nghề luật sư, đăng ký hoạt động của các tổ chức hành nghề luật sư, kiểm tra, giám sát việc tuân thủ pháp luật trong hành nghề của các luật sư, tổ chức hành nghề luật sư. Các tổ chức xã hội nghề nghiệp của luật sư có chức năng giám sát việc tuân theo các quy tắc đạo đức nghề nghiệp luật sư. Luật sư chịu trách nhiệm pháp luật trước các cơ quan nhà nước và trách nhiệm đạo đức nghề nghiệp trước các tổ chức xã hội nghề nghiệp đối với hoạt động nghề nghiệp của mình.
Cần xây dựng một văn bản pháp luật điều chỉnh chung cho cả luật sư Việt Nam và luật sư nước ngoài hành nghề tại Việt Nam, khắc phục tình trạng cát cứ như hiện nay. Phải coi luật sư nước ngoài hành nghề tại Việt Nam là một bộ phận của luật sư hành nghề tại Việt Nam, phải tạo cho họ một sân chơi chung, dần dần nội địa hoá các tổ chức luật sư nước ngoài hành nghề tại Việt Nam, hướng tới không chỉ cho phép họ thuê luật sư Việt Nam mà còn có thể để các luật sư Việt Nam thay thế luật sư nước ngoài điều hành các công ty luật quốc tế hành nghề tại Việt Nam.